Năm 1911, khi vào Sài Gòn, người thanh niên Nguyễn Văn Ba – bác hồ kính yêu - đã gặp được anh Lê và trở thành đôi bạn thân thiết.
Cảnh bác hồ và anh lê ssi dạo:
Bác: “Anh Lê, anh có yêu nước không?”.
Anh Lê ngạc nhiên và đáp: “Tất nhiên là có chứ!”.
Bác: “Anh có thể giữ bí mật không?”.
Anh Lê: “Có.”
Bác: : “Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng đi một mình, thật ra cũng có nhiều mạo hiểm, ví như đau ốm… Anh muốn đi với tôi không?”.
Anh Lê:“Nhưng bạn ơi! Chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?”
Bác: “Đây, tiền đây! - anh Ba vừa nói vừa giơ hai bàn tay. Chúng ta sẽ làm việc, chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì mà sống và để đi. Anh cùng đi với tôi chứ?”.
Bị lôi cuốn vì lòng hăng hái của Bác, anh Lê đồng ý. Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ, anh Lê không đủ can đảm và giữ lời hứa nữa. Ngày 02/6/1911, Nguyễn Tất Thành xin làm việc ở tàu Đô đốc mang tên Amiran Latusơ Tơrêvin. Lúc tàu cập cảng Sài Gòn, thuyền trưởng hỏi rằng: “Anh có thể làm được việc gì?” Tất Thành trả lời: “Tôi có thể làm bất cứ công việc gì!”. Sau đó thuyền trưởng nhận Thành vào làm phụ bếp và ng thanh niên ấy bắt đầu cho hành trình tim đường cứu nước của mình.
Miền Nam là nơi Nguyễn Tất Thành bắt đầu hành trình ra đi tìm đường cứu nước, cũng là nơi lưu giữ phần mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc, người cha kính yêu của Bác, mà chưa một lần Bác được vào thăm. Có lẽ vì thế, miền Nam là điều gì đó trăn trở, là nỗi nhớ thương, là mảnh đất Người hằng ao ước vào thăm một lần mà chưa thực hiện được. Vào những năm tháng cuối đời, miền Nam vẫn là niềm day dứt trong lòng Bác. Đầu năm 1968, sau khi đề nghị Bộ Chính trị bố trí vào thăm đồng bào miền Nam bằng đường Trường Sơn chưa thực hiện được, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích cực tập luyện sức khỏe, đi bộ, leo núi theo chỉ dẫn của bác sĩ một cách kiên trì. Tháng 3-1968, Người gửi thư đến đồng chí Lê Duẩn, trong đó có đoạn viết: “Chú có ý khuyên Bác đi thăm miền Nam sau ngày ta thắng lợi hoàn toàn, Bác rất tán thàn”
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gửi gắm những tình cảm tin cậy và yêu thương vô hạn cho miền Nam ruột thịt. Trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ và vô cùng anh dũng của dân tộc ta, từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối (1975), do đặc điểm địa - chính trị mà miền Nam luôn “đi trước, về sau”, là nơi “đầu sóng ngọn gió” của các phong trào đấu tranh giành và giữ vững sự toàn vẹn của quốc gia và bao giờ cũng là “Thành đồng Tổ quốc”. Chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho miền Nam những tình cảm đặc biệt: Miền Nam luôn trong trái tim Người!
Năm 1946, những ngày đầu của cuộc kháng chiến, thực dân Pháp âm mưu chia cắt Nam Bộ ra khỏi đất nước Việt Nam. Tại Hội nghị Việt - Pháp ở Fontainebleau, Bác tuyên bố: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”. Với Người, đất nước, núi sông Việt Nam là một khối thống nhất, Bắc - Trung - Nam không thể phân chia. Người đặt cả tâm trí mình “luôn luôn bên cạnh mấy triệu đồng bào quyết chiến đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ cho nền độc lập Việt Nam, để tỏ rõ cho toàn cầu biết rằng dân tộc Việt Nam đầy đủ tinh thần hy sinh chiến đấu...”
Người luôn luôn căn dặn, đồng bào, chiến sĩ và nhân dân Nam bộ phải đoàn kết với nhân dân cả nước trong công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Mỹ xâm lược nước ta, Mỹ rất mạnh, nhưng dù mạnh mấy mà nhân dân miền Nam đoàn kết, Bắc, Nam đoàn kết thì chúng ta nhất định thắng. Chừng nào miền Nam chưa được giải phóng, Bắc - Nam chưa sum họp một nhà thì chừng đó Người thấy mình chưa hoàn thành nhiệm vụ. Vì lẽ đó, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa III, ngày 8-5-1963, trước các đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xin phép chưa nhận Huân chương Sao Vàng và đề nghị: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng”.
. Trong khu vườn trước nhà sàn của Bác cũng được trồng nhiều loại cây đưa về từ khắp mọi miền của đất nước và trong đó không thể thiếu cây dừa, cây vú sữa của miền Nam. Những ngày cuối tháng 8, đầu tháng 9/1969, khi thấy trong người đã mệt, Bác đề nghị các đồng chí phục vụ cho Bác được uống nước dừa của hai cây dừa trên. Biết Bác đã mệt, không uống được, song các đồng chí phục vụ vẫn làm theo yêu cầu của Bác. Trước khi đi xa, Bác luôn nhớ tới miền Nam.
Tại nhà Bác nghỉ và chữa bệnh, vẫn lưu lại nhiều kỷ vật gắn với miền Nam mà Bác Hồ đã sử dụng, như tấm bản đồ “Bố trí binh lực địch ở miền Nam Việt Nam”, Bác và các đồng chí trong Bộ Chính trị nghe báo cáo, theo dõi trên bản đồ để nắm tình hình chiến sự. Trên bàn làm việc để một đài thu thanh bán dẫn Bác dùng để nghe tin tức, đặc biệt là nghe tin tức từ miền Nam. Chiếc đài này của một đơn vị quân giải phóng miền Nam thu được trong trận Phước Thành, gửi ra biếu Bác năm 1968.
Trước lúc đi xa, trong Bản Di chúc, Bác đã dành tình cảm, niềm tin mãnh liệt cho đồng bào miền Nam, cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc. Người viết: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn. Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sỹ anh hùng; thǎm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta”[7].
Mùa xuân cuối cùng của Bác, năm 1969, trong “Thư chúc mừng năm mới”, Người vẫn dành cho miền Nam sự tin tưởng và mong ước về một nước Việt Nam thống nhất, độc lập hoàn toàn:
Khi nghe tin Bác đi xa, người dân miền Nam nghẹn ngào, tiếc thương vô hạn. Nhiều hộ dân, nhiều địa phương ở miền Nam còn lập bàn thờ hoặc dựng đền thờ, nhà thờ, phủ thờ để tưởng niệm Người. Trong bài “Đền thờ Bác Hồ ở chót mũi Cà Mau”, nhà thơ Diệp Minh Tuyền đã viết:
“Ở tận cùng mũi đất phương Nam
Trong xanh rờn rừng đước
Giữa ba bề rì rầm sóng nước
Người quê tôi theo cách riêng mình
Dựng một ngôi đền
Thờ Bác kính yêu”...
Thực hiện tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thu non sông về một mối.
Hướng về 48 năm kỉ niệm ngày trọng đại của dân tộc 30/4/1975 – 30/4/2023, phát huy truyền thống “Thành đồng Tổ quốc,” nhân dân miền Nam đã và đang cùng nhân dân cả nước thực hiện đường lối đổi mới, hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, như mong ước của Bác Hồ kính yêu. Chúng ta, mỗi người con của vùng đất Nam bộ thân thương cần ý thức về trách nhiệm của mình để nỗ lực học tập, lao động, rèn luyện, xứng đáng với tình yêu thương mà Bác dành trọn cho đồng bào, dân tộc.