Các tài liệu tại Cục Lưu trữ Trung ương 2 (đường Lê Duẩn - Q.I) về cuộc khởi nghĩa, hay khi nhìn lại những thời khắc của cuộc khởi nghĩa rộng khắp trong toàn xứ Nam bộ, chúng ta càng khâm phục ý chí, sức mạnh ngoan cường của lòng dân đã đi theo Đảng và sẵn sàng hy sinh cả thân mình cho nền độc lập “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, như sau này Bác Hồ đã khẳng định.
Hoàn cảnh đưa đến cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ
Vào đầu tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ; tại Ðông Dương thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, chĩa mũi nhọn vào Ðảng Cộng sản và tiêu diệt những người yêu nước cùng các chiến sĩ cộng sản. Tình hình này dẫn tới mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp ngày càng gay gắt. Và từ ngày 29/9/1939 Trung ương Đảng vào đóng ngay tại Sài Gòn đã ra Thông báo gửi tất cả các Đảng bộ trong cả nước, chỉ rõ: “…Mấy năm gần đây, Đảng ta còn ở thời kỳ đấu tranh thế thủ, ủng hộ các quyền đấu tranh tự do dân chủ đơn sơ của quần chúng và đòi các quyền tự do dân chủ rộng rãi. Nhưng hiện nay tình hình đã thay đổi nhiều. Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề giải phóng dân tộc, hoàn toàn vấn đề ấy mau hay chậm là tùy theo tình hình thế giới và năng lực của các đồng chí”([1]).
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng từ ngày 6 đến 8/11/1939, tại Bà Ðiểm (Hóc Môn - Gia Ðịnh), lúc này do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì, Đảng ta xác định: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Ðông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập” ([2]). Nghị quyết của Hội nghị được phổ biến tới các địa phương, như một luồng gió mới tiếp thêm sinh khí cho phong trào cách mạng trên cả nước.
Căn cứ vào tình hình Trung ương chỉ đạo, từ tháng 7 đến tháng 10/1940, Xứ ủy Nam Kỳ liên tiếp tổ chức nhiều cuộc họp để bàn chủ trương và gấp rút lãnh đạo các tầng lớp nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Ðến giữa tháng 11/1940, trên cả vùng Nam bộ phong trào cách mạng đã sôi sục, tinh thần phản chiến trong binh lính người Việt lên cao, Xứ ủy Nam Kỳ họp bàn ra quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính quyền về tay nhân dân.
Để đi tới cuộc khởi nghĩa toàn Nam bộ, tại Hội nghị Tân Hương từ 21 - 27/7/1940 đồng chí Tạ Uyên thay đồng chí Võ Văn Tần vừa bị bắt đã chỉ đạo và triệu tập cuộc khoáng đại hội toàn xứ Nam Kỳ tại nhà bà Năm Dẹm - má Lê Thị Lợi - với sự có mặt của 24 đại biểu thuộc 19 tỉnh trong 21 tỉnh Nam kỳ, Đồng chí Phan Đăng Lưu, Ủy viên Thường vụ Trung ương đến dự.
Hội nghị kiểm điểm tình hình toàn Xứ và so sánh tình hình địch, đánh giá lực lượng ta, nhiều đồng chí dự Hội nghị cho rằng tình thế đã khẩn trương, quần chúng và đảng viên muốn khởi nghĩa, nếu Đảng không lãnh đạo thì quần chúng sẽ ma manh động. Sau hội nghị này nhất trí cử đồng chí Phan Đăng Lưu ra Bắc, xin ý kiến Trung ương, gặp các đảng bộ miền Trung, miền Bắc bàn việc phối hợp hành động. Hội nghị đã bầu đồng chí Tạ Uyên, thay đồng chí Võ Văn Tần làm Bí thư Xứ ủy, bầu hai đồng chí Phan Văn Khỏe, Lê Văn Khương vào Ban Thường vụ Xứ ủy cùng các ủy viên Xứ ủy.
Sau hơn một tháng các Tỉnh ủy đều có sự chuẩn bị mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa. Ngày 04/9/1940 Xứ ủy Nam kỳ ra Thông cáo đối với thời cuộc hiện tại. Trong nội dung chỉ đạo, Thông cáo đề cập tới vấn đề thành lập Mặt trận dân tộc phản đế, giao thông liên lạc, tài chính cho thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa. Thông báo cũng đề cập việc thành lập và huấn luyện các đội tự vệ ở khắp nơi, như Xứ ủy chỉ đạo: “Muốn khởi nghĩa thành công giành được chính quyền ngay từ bây giờ chúng ta phải có một đội quân cách mạng giác ngộ và có tổ chức chặt chẽ”.
Sau Hội nghị Tân Hương, đồng chí Phan Đăng Lưu đi Bắc chưa về, Bí thư Xứ ủy Tạ Uyên triệu tập họp Xứ ủy mở rộng tại xã Tân Xuân (Hóc Môn) từ ngày 21-23/9/1940. Hội nghị này có tầm quan trọng trong toàn xứ, khi hội nghị đường hướng cho cuộc khởi nghĩa trong 2 tháng và Sài Gòn - Chợ Lớn được chọn là trọng điểm, là nơi phát lệnh khởi nghĩa cho cả Nam kỳ. Sau phần thảo luận tình hình thế giới, trong nước; tình hình và lực lượng địch, Hội nghị bàn sâu về thời cơ khởi nghĩa vào lúc nào? Các ý kiến thảo luận sôi nổi đưa ra 4 tình huống sau đây:
1/ Khi nào Pháp-Nhật đánh nhau ở Đông Dương.
2/ Khi nào Nhật dùng bất cứ cách nào chiếm Đông Dương.
3/ Khi nào Pháp cho Nhật vào Đông Dương, dùng con đường Hà Nội-Vân nam tiến công Trung Hoa.
4/ Khi nào xung đột Nhật-Mỹ bùng nổ ở Đông Dương.
Trong hội nghị các tài liệu tuyên truyền, chuẩn bị tình hình nội bộ, cách phân công người chỉ đạo, phụ trách từng địa bàn đã được Xứ ủy phân công. Theo sự phân công của Hội nghị Tân Xuân, Bí thư Xứ ủy Tạ Uyên phụ trách chung, đồng thời phụ trách địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn; Xứ ủy đã bổ sung một số trong thành viên Xứ ủy chỉ đạo từng địa bàn.
Từ Hội nghị Tân Xuân, Thường vụ Xứ ủy ra thông báo cho các cấp bộ đảng nhất loạt phát động nhân dân nổi dậy vào lúc 24 giờ ngày khuya ngày 22/11/1940.
Nhân dân Sài Gòn & Nam bộ đi vào khởi nghĩa đêm 22/11/1940
Sau Hội nghị Tân Xuân công tác chuẩn bị khởi nghĩa được các đảng bộ chuẩn bị chu đáo. Tại tỉnh Chợ Lớn (lúc này TP Chợ Lớn thuộc tỉnh Chợ Lớn gồm một phần của Long An và Chợ Lớn ngày nay), Tỉnh ủy Chợ Lớn đã thông báo đề cương khởi nghĩa của Xứ ủy tới các cấp ủy trong tháng 9/1940. Đồng chí Dương Công Nữ, Tỉnh ủy viên kiêm Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn trực tiếp chỉ đạo tiến hành công tác chuẩn bị lãnh đạo giành chính quyền ở Chợ Lớn và hỗ trợ trực tiếp cho TP Sài Gòn. Về chuẩn bị lực lượng vũ trang Tỉnh ủy Chợ Lớn chỉ đạo mỗi tổng, quận đều thành lập đội du kích, mở lớp huấn luyện, mua vũ khí. Ở trung bình mỗi xã có từ 10-15 du kích, nhưng tại một số xã có cả trung đội du kích, như xã Long Hiệp (tổng Long Hưng Hạ) có cả một trung đội du kích. Khu vực tổng Long Hưng Hạ (tức Trung Quận) đã thành lập được 6/7 Ban khởi nghĩa cấp xã…
Theo đúng sự chỉ đạo của Xứ ủy, cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ đã nổ ra ở 20/21 tỉnh, thành phố Nam Kỳ, kéo dài từ đêm 22 rạng sáng 23-11 đến ngày 31/12/1940, mạnh nhất là ở các khu vực Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, tỉnh lỵ Vĩnh Long... Lực lượng vũ trang và quần chúng đã nổi dậy tiến công địch ở các xã, tập kích nhiều đồn bốt, tiến đánh một số quận lỵ, phá hỏng nhiều cầu, đường, cắt dây điện thoại... ở tỉnh Vĩnh Long, chính quyền cách mạng cấp quận đã được thành lập tại quận Vũng Liêm. Tại Mỹ Tho, chính quyền cách mạng ở vùng khởi nghĩa tồn tại suốt trong 40 ngày nhân dân hoàn toàn làm chủ.
Tại một số nơi, nhân dân lập tòa án cách mạng xét xử bọn phản động, xóa bỏ các thứ thuế hà khắc với nhân dân, xóa các khoản nợ, tịch thu thóc gạo của địch chia cho dân nghèo và nuôi nghĩa quân. Trong bão táp cách mạng, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu được giương cao trong các cuộc biểu tình, tiến công đồn bốt ở Mỹ Tho (vùng Long Hưng, Long Ðịnh), Gia Ðịnh (vùng Hóc Môn), Vĩnh Long (vùng Vũng Liêm), Bạc Liêu, Cà Mau, Chợ Lớn, Tân An, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bến Tre, Long Xuyên, Thủ Dầu Một...
Mặc dù cuộc khởi nghĩa do điều kiện chưa nổ ra chưa chín muồi, địch nắm được thông tin từ trước, nên nhiều lãnh đạo cấp cao Đảng ta, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa bị bắt.
Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ có ý nghĩa rất to lớn, để lại nhiều bài học cách mạng sâu sắc, đó là:
* Cùng với Cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn, cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ là những tiếng súng báo hiệu cho toàn quốc đi vào tổng khởi nghĩa về sau; đây là bước khởi đầu để tranh đấu bằng võ lực của dân tộc ta ở xứ Ðông Dương và của cách mạng nước ta
* Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ đã thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của nhân dân các tỉnh Nam Bộ trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Ngày 14/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 163- SL tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất cho Ðội quân khởi nghĩa Nam Bộ năm 1940 “đã nổi lên chiến đấu oanh liệt với kẻ địch và đã biểu dương được ý chí quật cường của dân tộc”. Ðó là sự khắc sâu của dân tộc đối với công lao và sự hy sinh to lớn quân và dân Nam Kỳ.
* Từ Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ, mà nhiều cán bộ của Đảng đã trui rèn, thử thách. Sau cuộc khởi nghĩa này, một đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành với lý tưởng của Ðảng, gương mẫu chiến đấu hy sinh vì quyền lợi của dân tộc, của nhân dân đã trưởng thành và đảm đang những trọng sự mà Đảng ta giao phó về sau. Từ đây, cũng đã có hàng vạn quần chúng nhân dân yêu nước được thử thách trong đấu tranh, từ đó tiếp tục theo Ðảng thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, nhằm đi tới Cách mạng Tháng Tám 1945.
* Bài học về phương thức khởi nghĩa, cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ là minh chứng sinh động nhất cho chủ trương, Đảng ta đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên nhiệm vụ hàng đầu, như đã được đặt ra tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11/1939 với phương pháp đấu tranh vũ lực là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo.
Ðồng thời, Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ cũng là cơ sở thực tiễn để Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì tại Việt Bắc, diễn ra 5 tháng sau đó, quyết định thay đổi chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết, trước hết cũng như hoàn thiện con đường chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, mà về sau đi vào chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám 1945, Đảng ta đã có những bước đi rất kỹ càng, chu đáo trong nhìn nhận thời cơ, vấn đề, chuẩn bị cho xây dựng lực lượng, đề phòng những bất trắc từ kẻ thù... đi tới giải phóng toàn dân tộc.

Nhân dân Nam bộ trong Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ 23/11/1940

Tượng đài Ngã ba Giồng tưởng nhớ các chiến sĩ CM hy sinh trong Nam Kỳ khởi nghĩa